Tư duy quy trình là gì?
Tư duy quá trình là một cách diễn giải các sự kiện dưới dạng các quá trình thay đổi tạo ra chúng. Nó tập trung vào các động lực phi tuyến tính của sự thay đổi theo thời gian tạo ra các mô hình nhất định mà các sự kiện xuất hiện. Tư duy quá trình liên quan đến việc xem xét các hiện tượng một cách động – liên quan đến chuyển động, hoạt động, sự kiện, sự thay đổi và tiến hóa theo thời gian.
Vận dụng tư duy quy trình, cơ hội để thành công
Ông Nguyễn Tuấn Hồng Phúc (thạc sĩ chuyên ngành quản lý chuỗi cung ứng) là Chủ nhiệm cao cấp, Bộ phận Tư vấn DN, Ernst&Young Việt Nam, phụ trách tư vấn về nâng cao hiệu quả hoạt động của DN. Ông Phúc có hơn 7 năm kinh nghiệm làm việc tại châu Âu và Việt Nam, tư vấn cho các DN về phương thức cải thiện quy trình kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
Tổng quan
Quy trình là chuỗi hoạt động liên quan được tích hợp một cách có hệ thống, nhằm tạo ra một dịch vụ hoặc sản phẩm để đáp ứng cho một mục tiêu cụ thể nào đó. Quy trình được thiết kế hợp lý sẽ giúp tạo ra dịch vụ hoặc sản phẩm có chất lượng hơn, sử dụng thời gian hiệu quả hơn và tốn ít chi phí hoạt động hơn.
Tuy nhiên, tại các thị trường mới nổi như Việt Nam, trong các thập kỷ qua, các DN đều chỉ đặt ra mục tiêu chiếm lĩnh thị phần và gia tăng doanh thu, chứ chưa chú trọng nhiều đến việc hoàn thiện quy trình kinh doanh. Kết quả là, dù thị phần có gia tăng, năng suất hoạt động vẫn kém và kết quả kinh doanh vẫn bị ảnh hưởng. Với kinh nghiệm hợp tác với nhiều DN đang phát triển tại Việt Nam, chúng tôi nhận thấy, thời gian gần đây, mối quan tâm của DN đang dần dịch chuyển sang hoàn thiện các quy trình kinh doanh. Sự dịch chuyển này được tác động bởi bốn nhân tố chính.
Khủng hoảng tài chính buộc các DN phải chú trọng quản lý lợi nhuận
Tại các nền kinh tế mới nổi, khi lợi nhuận chủ yếu được tạo ra từ tăng trưởng doanh thu và sự thành công của DN được quyết định chủ yếu bởi thị phần, thì các giải pháp để tối ưu hóa chi phí và quy trình đều không được chú trọng đúng mức. Hiện nay, khi tăng trưởng kinh tế sụt giảm, những nỗ lực làm tăng doanh thu đã không cho kết quả như mong đợi. Chính vì vậy, để có thể tồn tại, song song với việc tiếp tục đẩy mạnh tăng trưởng doanh thu, các DN đã chú trọng nhiều hơn đến cốt lõi của các hoạt động kinh doanh: quản lý quy trình kinh doanh.
Có thể thấy, các biện pháp cắt giảm chi phí cũng đem lại các kết quả tích cực đến lợi nhuận tương tự như các giải pháp làm tăng doanh thu. Cắt giảm chi phí không chỉ đơn thuần là cắt giảm tùy ý, mà đòi hỏi phải có phương pháp thực hiện bài bản và nghiêm túc, trong đó xem xét đến những yếu tố nền tảng trong hoạt động của DN: quy trình kinh doanh. Thiết kế của quy trình có ảnh hưởng đến ba khía cạnh về chất lượng dịch vụ/sản phẩm, thời gian và nguồn lực – đều có thể quy đổi thành chi phí hoạt động của DN.
Một ví dụ minh họa là quy trình lập kế hoạch kinh doanh và dự báo tài chính. Khi quy trình này được thực hiện một cách hiệu quả, DN có thể tiết kiệm được chi phí nhờ vào khả năng sản xuất hoặc đặt đơn hàng đúng thời điểm với số lượng phù hợp, thay vì phải lưu quá nhiều hàng tồn kho do dự báo sai hoặc không có thông tin dự báo.
Cạnh tranh gia tăng
Tác nhân thứ hai thúc đẩy các DN phải áp dụng tư duy quy trình là do mức độ cạnh tranh kinh doanh ngày càng gia tăng. Trở thành thành viên WTO vào năm 2007, Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các DN nước ngoài tham gia vào thị trường nội địa. Những DN này đã tạo ra những thách thức lớn đối với các DN Việt Nam khi có lợi thế về cách tổ chức hoạt động hiệu quả. Khi vận dụng kinh nghiệm về quản lý vào Việt Nam, cùng với sự hỗ trợ của công nghệ tiên tiến, những DN này sẽ có lợi thế là quy trình hoạt động hiệu quả hơn. Với sức ép cạnh tranh cao với cả DN trong nước lẫn nước ngoài, người tiêu dùng kỳ vọng giá cả sẽ giảm và/hoặc dịch vụ được cải thiện. Một mô hình hoạt động hợp lý hơn sẽ giúp tiết kiệm chi phí, từ đó cũng mang lại cho người tiêu dùng lợi ích gia tăng nhờ vào cơ chế định giá cạnh tranh hơn. Để có thể cung cấp dịch vụ tốt hơn so với các đối thủ, các DN cần chú trọng vào những quy trình trọng yếu để cung cấp cho người tiêu dùng đúng những gì họ mong muốn.
Khách hàng có kỳ vọng cao hơn
Hiểu biết của người tiêu dùng Việt Nam ngày càng tăng theo mức độ phát triển của ngành, mà ngành bán lẻ là một ví dụ cụ thể. Cách đây 20 năm, hầu hết người dân Việt Nam đều mua hàng hóa ở chợ hoặc hiệu tạp hóa. Ngày nay, phần lớn dân cư thành thị tìm đến các mô hình bán lẻ hiện đại như siêu thị để thỏa mãn nhu cầu mua sắm. Ngành bán lẻ đang phát triển cùng với mức độ cạnh tranh ngày càng lớn đã làm gia tăng kỳ vọng của người tiêu dùng và làm phát sinh nhu cầu mới, trong đó không những phải giảm giá bán mà còn phải có nhiều sản phẩm hơn, vòng đời sản phẩm ngắn hơn và giới thiệu sản phẩm mới nhanh gọn hơn. Để đáp ứng những nhu cầu và kỳ vọng này, các DN trong nước nhận ra rằng, tái thiết kế hoặc xây dựng quy trình kinh doanh mới là chìa khóa có thể giúp cải thiện chất lượng dịch vụ và sản phẩm.
Thu hút nhà đầu tư
Trong bối cảnh suy thoái kinh tế, nhiều DN không huy động đủ nguồn vốn nội bộ đủ lớn để đáp ứng mức độ tăng trưởng và do vậy, phải tìm kiếm thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài.
Đối với các quỹ đầu tư hoặc những công ty đang tìm kiếm đối tác chiến lược, các DN Việt Nam hiện nay đang bị định giá thấp hơn so với các năm trước đây, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Những nhà đầu tư tiềm năng này thường có lợi thế thương lượng lớn. Chính vì vậy, DN cần đáp ứng nhiều yêu cầu cao về hoạt động để thuyết phục nhà đầu tư. Trong đó, cần chú trọng cải thiện các quy trình quản trị được xem là trọng yếu đối với các nhà đầu tư, ngoài các quy trình đặc trưng của ngành. Những quy trình này thường liên quan đến các hoạt động hỗ trợ kinh doanh, như lập kế hoạch kinh doanh và dự báo tài chính, quản trị doanh rủi ro và kiểm soát nội bộ.
Phương pháp tiếp cận
Theo quan điểm của chúng tôi, DN nên xem giai đoạn suy thoái kinh tế như một cơ hội để củng cố lợi thế cạnh tranh của mình qua việc hoàn chỉnh và gia tăng hiệu quả của bộ máy hoạt động quản trị. Về lâu dài, các quyết định được đưa ra trong giai đoạn đầy thử thách này có thể sẽ giúp cho DN phát triển vững vàng hơn trong tương lai. Để nâng cao hiệu quả hoạt động, các DN có thể chú trọng đến cải thiện quy trình với nhiều mục tiêu khác nhau ở bốn cấp độ sau:
* Tích hợp hóa quy trình: Trọng tâm chính là cắt giảm các hoạt động thừa hoặc có giá trị gia tăng thấp bằng cách thiết kế quy trình để thực hiện công việc đúng ngay từ ban đầu.
* Tự động hóa quy trình: Chú ý đến việc tự động hóa khi có thể các tác nghiệp đang được thực hiện một cách thủ công, nhằm tiết kiệm chi phí do công việc được thực hiện với ít nguồn lực hơn, nhanh hơn và nhất quán hơn.
* Tái thiết kế quy trình tương ứng theo các thông lệ hàng đầu trong ngành: chú trọng cải thiện cách thức và năng lực thực hiện các quy trình hiện tại.
* Tái cơ cấu tổ chức. Tái cơ cấu hoạt động của Công ty, trong đó tất cả các quy trình được thiết lập lại một cách toàn diện, tạo ra cho DN các ưu điểm mới khác biệt vượt trội so với đối thủ.
Phương pháp cuối “Tái cơ cấu tổ chức” cần mất nhiều năm để triển khai và khi đã hoàn tất, các mẫu thiết kế hoàn thiện quy trình trước đó sẽ có thể không còn phù hợp nữa và cần được chỉnh sửa lại. Phương pháp này đòi hỏi sự thay đổi lớn và chỉ nên được thực hiện tại DN khi môi trường hoạt động tương đối ổn định. Với thực trạng tỷ lệ nhân viên nghỉ việc cao như tại Việt Nam, đây là một phương pháp khá rủi ro. Đối với một thị trường bất ổn, phương pháp tốt nhất để các DN có thể áp dụng là cải thiện từng bước từng mảng hoạt động. Tập trung cải thiện những mảng hoạt động trọng yếu nhất và sau đó mới chuyển sang lĩnh vực khác. Các DN nên bắt đầu trước tiên bằng việc xác định lại trọng tâm kinh doanh và hiểu rõ chiến lược cho những năm tới.
Hoàn thiện quy trình kinh doanh chính cần được thực hiện dựa trên một bức tranh tổng thể, qua đó xem xét hoạt động nào là thừa và hoạt động nào làm gia tăng giá trị. Những hoạt động không làm gia tăng giá trị là những hoạt động gây tốn kém chi phí, đình trệ tiến độ và ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và/hoặc dịch vụ khách hàng. Những hoạt động này phải được loại bỏ trong quy trình mới.
Kết luận
Điều kiện kinh doanh tại Việt Nam đang thay đổi do ảnh hưởng của toàn cầu hóa, khủng hoảng tài chính, tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ và vòng đời ngắn hơn của sản phẩm. Thực tế này sẽ làm cho mức độ cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn. Đồng thời, chúng ta cũng nhận thấy đã có sự chuyển dịch vị thế thương lượng từ nhà cung cấp sang khách hàng. Thị trường ngày càng bão hòa, khách hàng sẽ ngày càng có hiểu biết nhiều hơn và tiếp cận thông tin dễ dàng hơn, do vậy, sẽ có kỳ vọng lớn hơn. Tất cả những thay đổi này sẽ có ảnh hưởng lớn đến các DN và tạo áp lực đối với lãnh đạo các DN để thích ứng. Khi cấp lãnh đạo DN đã vận dụng tư duy quy trình, họ sẽ hiểu rằng quy trình là nền tảng hoạt động của DN và tái thiết kế quy trình là một giải pháp để thích ứng với những thay đổi. Thiết kế quy trình chuẩn cần bao gồm các chỉ số đo lường hiệu suất quy trình và diễn giải một cách rõ ràng vai trò và trách nhiệm của từng thành phần tham gia. Những công ty nào nhanh chóng chú trọng và triển khai thành công công tác cải thiện quy trình, sẽ có được lợi thế cạnh tranh nhờ tính linh động và hiệu quả của các quy trình hoạt động, từ đó sẽ chiếm lĩnh thị trường trong tương lai.
Tư duy quy trình hệ thống là một trong những yếu tố quan trọng để quản lý dự án, cũng như hoạt động quản lý hằng ngày. Nhưng tại sao quy trình lại quan trọng? Làm sao để phát triển và áp dụng quy trình hiệu quả trong hoạt động quản lý dự án?
Quản lý dự án và sự quan trọng của tư duy quy trình hệ thống
Chúng ta hãy cùng thảo luận để làm rõ 2 câu hỏi trên.
Trước tiên, chúng ta cần làm rõ quy trình là gì?
“Quy trình là một tập hợp các hoạt động liên quan đến nhau tương tác để đạt được một kết quả” theo wikipedia.org.
Còn trong thực tế thì một process là một tập hợp các bước thực hiện để đạt được kết quả đầu ra. Quy trình có thể không được tài liệu hoá, không được chuẩn hoá. Mỗi kết quả đầu ra là kết quả của một quy trình với một tập hợp các điều kiện cụ thể. Một quy trình luôn tồn tại ngay cả khi bạn không nghĩ nó đang tồn tại.
Tại sao tư duy quy trình lại quan trọng?
Các quy trình đang tạo ra giá trị cộng thêm, các quy trình có thể đi xuyên chức năng giữa các bộ phận nghiệp vụ trong tổ chức, hoặc đi xuyên chức năng trong dự án.
Các quy trình luôn hướng đến các kết quả đầu ra, và chúng là cơ sở nền tảng để quản lý hiệu quả. Cho dù bạn đang quản lý các mối quan hệ cá nhân, dự án hoặc bất kỳ hoạt động nào mà bạn muốn đạt được kết quả như mong đợi với chất lượng công việc tốt. Nếu bạn muốn nhìn về phía trước và tìm kiếm kết quản công việc tốt hơn thì kế hoạch quản lý dự án là cơ sở để xác định cách bạn tiến hành, kết hoạch luôn bao gồm nhiều process khác nhau để giúp cho bạn đảm bảo công việc được hoàn thành với kết quả cao nhất.
Với các tổ chức có hệ thống quản lý chất lượng tốt thì họ luôn đưa ra hướng dẫn cụ thể về các quy trình cần thực hiện để đảm bảo kết quả đầu ra của dự án, nhưng các quy trình trong dự án cần được pilot sao cho phù hợp với đặc thù của dự án. Các quy trình chính là những hướng dẫn các bước thực hiện để giúp đội ngũ của bạn đạt được mục tiêu.
Quy tắc 85/15
Theo tiến sĩ Juran, một người tiên phong trong việc phát triển các hệ thống quản lý chất lượng, ông đã đưa ra khái niệm quy tắc 85/15. Ông cũng đưa ra nhiều dẫn chứng rằng con người là nguyên nhân tạo ra 15% lỗi, trong khi quy trình là nguyên nhân của phần còn lại.
Tư duy quy trình làm cho mọi người ít có khả năng phải tham gia cuộc chơi đổ lỗi cho nhau, hoặc anh hùng đáng kính. Thay vào đó, phân tích quá trình là để xác định nguyên nhân của vấn đề và thành công. Định hình khung quy trình giúp mọi người hoàn thành công việc của họ. Bỏ qua quy trình thì nguy cơ thất bại sẽ lặp lại rất cao. Nhưng ở vai trò nhà quản lý dự án, bạn cần đưa quy trình thành văn hoá của đội ngũ, nếu không quy trình sẽ trở thành rào cản cho đội ngũ.
Điều kiện quy trình
Các quy trình được thực hiện với các điều kiện. Cùng một quy trình nhưng có thể tạo ra những kết quả công việc khác nhau, nếu chúng được thực hiện bởi những con người có năng lực khác nhau, văn hoá làm việc khác nhau, hoặc các nguồn lực khác nhau.
Đó là lý do tại sao hoạt động quản lý dự án theo quy trình cần cho phép áp dụng quy trình một cách linh hoạt, phù hợp với những điều kiện cụ thể tuỳ theo quy mô, cơ sở vật chất hiện có của dự án. Áp dụng quy trình một cách cứng nhắc có thể tạo ra công thức cho sự thất bại.
Chuẩn hóa và tài liệu hoá các quy trình
Hầu hết các quy trình trong dự án thường bỏ quên công việc tài liệu hoá và chuẩn hoá. Tài liệu hoá quy trình là một trong những bước quan trọng để mô tả bằng đồ hoạ hoặc viết dưới dạng văn bản. Tài liệu được chuẩn hoá ghi lại những bước công việc thực hiện phổ biến với văn hoá đội ngũ đang có và mang lại những kết quả cụ thể.
Phân tích quy trình và cải tiến
Quy trình chính là những hướng dẫn để đảm bảo các thành viên đội dư án tuân thủ và tạo kết quả đầu ra tốt nhất. Nhưng quy trình sẽ bị lỗi thời khi năng lực đội ngũ tăng lên và nguồn lực cho dự án được hỗ trợ nhiều hơn. Do đó, ở giai đoạn hoàn tất dự án, các đội dự án cần đóng góp vào những phản hồi để đội dự án có thể đảm bảo chất lượng, có thể phân tích và cải thiện quy trình chuẩn của tổ chức và kế thừa cho các dư án trong tương lai.
Phân tích và cải tiến các process là bước quan trọng để hướng tới sự thành công trong tương lai của tổ chức.
Tư duy hệ thống so với Tư duy quy trình
Tư duy Hệ thống là cách toàn bộ hệ thống hoạt động cùng nhau. Quá trình là một phần nhỏ hơn của hệ thống lớn hơn. Hệ thống là một thực thể duy trì sự tồn tại của nó thông qua sự tương tác lẫn nhau giữa các bộ phận của nó với một chuỗi các hoạt động, nhằm giữ cho các bộ phận có sự gắn kết và đảm bảo các chức năng cần thiết. Quá trình là một chuỗi các hoạt động nhằm tạo ra một kết quả cụ thể. Vì vậy, bên trong hệ thống, có các quy trình, và tư duy quy trình sẽ và phải tương thích với tư duy hệ thống.
Tư duy Hệ thống (ST) và PT (Tư duy Quy trình) đều có mục đích
Một hệ thống là có mục đích. Nó có thể thay đổi mục đích và mục tiêu của nó và không nhất thiết ‘thất bại’ nếu mục tiêu và mục đích không được đáp ứng. Một trong những phần của nó được thiết kế để thay đổi mục đích và mục tiêu của hệ thống. Ngoài ra, một hệ thống có thể thích ứng với môi trường của nó. Quá trình cũng có mục đích, bạn không thể thay đổi mục đích và mục tiêu của nó và thất bại nếu nó không hoàn thành mục đích hoặc không đạt được mục tiêu của nó. Không có phần nào của quy trình thay đổi mục đích của nó – vai trò đó được trao cho quy trình khác. Một quy trình không thể thích ứng với môi trường của nó – nó phải được thiết kế lại bằng một quy trình khác. Cuối cùng, ST là để phát hiện những khiếm khuyết trong thiết kế và tìm ra chiến lược tốt nhất để cải thiện nó (điểm đòn bẩy). Do đó, ST và PT, mặc dù khác nhau, nhưng nên được tích hợp vào lý thuyết và thực hành, mà chúng ta cần một số mô hình khái niệm, thậm chí chúng khá mơ hồ và không chính xác.
Tư duy quy trình tập trung hơn và cụ thể hơn; trong khi tư duy hệ thống là nhìn thấy tổng thể được kết nối với nhau
Tư duy “quy trình” là một chuỗi các hành động, hoạt động, thay đổi, v.v., diễn ra từ hành động này sang hành động khác. Nhiều người tin rằng họ là người tư duy theo quy trình tin rằng họ logic và họ tiến hành theo một tiến trình hợp lý. Tư duy “hệ thống” là một sự sắp xếp có trật tự, liên kết với nhau và đôi khi phức tạp của các nguyên tắc được liên kết với nhau để tạo thành một học thuyết nhất quán. Nhiều người tin rằng họ là những nhà tư tưởng hệ thống, tự cho mình là người nhìn thấy bức tranh “lớn hơn” hoặc viễn cảnh toàn cầu, cũng như cách suy nghĩ của họ có thể dựa trên một tập hợp các nguyên tắc có sẵn. Do đó, tư duy quá trình có thể được coi là vi mô hoặc tập trung vào một cụ thể, trong khi tư duy hệ thống có thể được coi là vĩ mô hoặc dựa trên bản chất rộng. Một hệ thống là một nhóm các yếu tố tương tác, liên quan hoặc phụ thuộc lẫn nhau tạo thành một tổng thể phức tạp.Hầu như luôn luôn được xác định đối với một mục đích cụ thể.
Quy trình là CÁCH; hệ thống là CÁI GÌ
Để có một hệ thống hoạt động, người ta phải thiết kế các quá trình trong hệ thống hoạt động liên tục để đạt được kết quả mong muốn. Chỉ khi đó, một hệ thống mới có thể được gọi là một hệ thống nếu không nó chỉ là một chuỗi các hoạt động ngẫu nhiên, không phải là quá trình cũng không phải là hệ thống. Các vấn đề nảy sinh ở cấp độ “cảm xúc” – những người phải sử dụng các quy trình trong hệ thống và các quy trình để kết nối hệ thống. Mọi người “bảo vệ”, “phản kháng”, “ghen tị”, “cạnh tranh”, v.v., nhưng mẹo là khiến mọi người cùng tham gia và tìm ra giá trị cho bản thân trong việc thiết kế các quy trình và hệ thống phù hợp.
Cầu nối hai quan điểm
Điều bạn nên làm là kết nối hai quan điểm để chúng có thể nâng cao lẫn nhau. Có vẻ như để làm được điều này, bạn cần phải tìm hiểu sâu hơn và có một số mô hình chung bao gồm cả hai quan điểm. Trên con người và hệ thống. Trong mô hình hiện tại, con người được coi là thực thể không thể phân chia, hệ thống phức tạp và bao gồm cả con người. Coi con người là hệ thống. Xác định sự tương tác giữa các quá trình có thể là đầu ra của quá trình này, đầu vào của quá trình khác và tất cả các quá trình tương tác để tạo ra một hệ thống hoàn chỉnh. Tuy nhiên, bất cứ khi nào bạn cố gắng đạt được kết quả mong muốn mà không tuân theo kết quả đầu ra tự nhiên, kết quả có thể là sai. Ở cấp độ trừu tượng sâu sắc, tất cả các hệ thống và quy trình đều giống nhau, trên thực tế, chúng thuộc các phạm trù khác nhau. Đây là lý do tại sao có và nên có các ngành / lĩnh vực / lý thuyết khác nhau để điều tra chúng. Ai cũng biết rằng cùng một hiện tượng có thể được mô tả theo những cách khác nhau tương đương theo nghĩa thuần túy toán học nhưng không tương đương theo nghĩa ứng dụng.
Tư duy hệ thống là góc nhìn trực quan-không gian, não phải, trong khi tư duy quá trình là góc nhìn tập trung của não trái: Chúng không xung đột, tuy nhiên. Tư duy Hệ thống đòi hỏi một sự thay đổi trong nhận thức để nhận ra rằng một ST tổ chức kết hợp các thành phần tương tác, liên quan và phụ thuộc lẫn nhau của một tổng thể có mục đích trên nhiều loại hệ thống để tạo ra giá trị gia tăng. ST không cần phải xem xét các chi tiết của thiết kế như các quy trình nghiệp vụ cấp thấp để phát hiện ra các mẫu hành vi, do đó, các mô hình ST hoàn toàn có thể khác với các mô hình quy trình nghiệp vụ. Có rất nhiều lý do khiến kết quả thiết kế khác với dự định, chẳng hạn như khoảng trống trong thiết kế do không có quy trình xử lý các tình huống nhất định, thiết kế phi thực tế không thể thực hiện trong hệ thống tổ chức, thiết kế lý tưởng không tuân theo tài khoản tài nguyên hạn chế,
Không chỉ có sức mạnh tổng hợp giữa Tư duy Hệ thống (ST) và Tư duy Quy trình (PT). Tư duy hệ thống là xác định nơi nào các hành động và quyết định có tác động tiêu cực đến kết quả. Các quy trình là điều cần thiết để làm cho một hệ thống “hoạt động”. Nếu không có tư duy quy trình, hệ thống là các hạng mục riêng biệt sống cuộc sống của chúng mà không có bất kỳ tương tác nào với môi trường của chúng, bao gồm các hệ thống khác. Có quan điểm và lý thuyết khác nhau là một lợi thế. Mục tiêu của bài tập hiện tại là tìm ra cách các quan điểm khác nhau được kết nối và bổ sung cho nhau để giải quyết các vấn đề phức tạp và thiết kế tổ chức.
Tư duy quy trình trong tổ chức chiến lược
- Tư duy quy trình liên quan đến việc xem xét hiện tượng động – về chuyển động, hoạt động, sự kiện, thay đổi và tiến hóa thời gian.
- Chúng ta cần tư duy về quy trình bởi vì các mô hình mặt cắt ngang truyền thống cung cấp bức tranh một phần của thế giới không có vai trò của thời gian và giả định trạng thái cân bằng. Áp dụng mô hình để tạo ra sự cạnh tranh
- Nghiên cứu thực nghiệm kết hợp tư duy quá trình có thể có nhiều loại các hình thức. Một hình thức liên quan đến việc sử dụng mô phỏng dựa trên tác nhân cho phép đứng về hệ quả động của các tập hợp quan hệ cơ bản khá đơn giản-tàu thuyền. Một dạng khác liên quan đến việc sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian và lịch sử sự kiện phân tích